|
Ông nội của tôi ở Mỹ-Thạnh,Tân-Trụ. Ruộng đất cò bay thẳng cánh. Lúc tôi lớn lên, không biết người con cả của nội là ai. Chỉ biết ba tôi là thứ tư ở chung với bác Ba. Khi ông nội qua đời, chỉ còn hai anh em, nhưng bác Ba muốn giành hết gia sản nên thường ăn hiếp, nặng nhẹ với ba tôi. Nhất là khi ba tôi bị Tây bắt bỏ tù vì tội tham gia kháng chiến, thì bác Ba gái đuổi má tôi đi. Căn nhà ngói của nội thật rộng lớn mà bác Ba đóng cửa, anh chị em chúng tôi chỉ ở chuồng trâu, không được vào nhà. Ngày mưa lớn, thấy chị em tôi bị ướt lạnh, má vừa khóc vừa đi xin rơm khô của hàng xóm về quay thành một cái ổ chó cho anh chị em tôi ngủ.
Cuối cùng má phải bỏ Mỹ-Thạnh về lại nương náu nhà bà ngoại ở Tầm-Vu, Bình-Phước. Má tôi sanh nhiều con mà chết cũng nhiều. Nghèo quá mà sinh tới chị thứ 11 thì má quyết “ dứt điểm” nên đặt tên là Út. Năm năm sau lại sinh ra tôi thứ 12, má gọi tôi là Út Nhỏ. Chị 11 phải sửa thành Út Lớn. Ba năm sau lại sanh thằng em thứ 13, má đành phải gọi nó là Út Cu! Hằng ngày, má tôi phải gánh cháo vịt đi bán dạo. Một hôm một người mang bầu, đón đường má tôi năn nỉ, vì chị thèm cháo vịt quá mà không có tiền mua. Chị xin múc cháo cho chị ăn và đổi một con chó nhỏ. Má tôi nghèo nhưng hào phóng, múc cháo, chặt vịt cho chỉ ăn thoải mái và đem chó con về nhà. Thêm một miệng ăn, má tôi gọi chó là Út Chót. Út Chót đen thui, nhưng tôi gọi là “chó đen” thì má sửa sai, bảo phải gọi là “chó mực”. Má tôi nói một tràng: “mèo đen gọi là mèo mun, ngựa đen phải nói là ngựa ô, gà đen phải gọi là gà ác...“ Lớn lên Út Chót rất khôn, nó là cận vệ sau lưng má tôi không bao giờ rời, khi má gánh cháo ra ngồi bán ở chợ Long-An, nó nằm chực sau lưng. Lúc nào khách ăn bỏ xương vịt là nó hưởng, bởi vậy lông nó đen mướt. Mỗi buổi sáng, ra tới chợ là má tôi mua trầu cau, bó trong lá chuối rồi cột vào cổ Út Chót. Nó đứng vểnh lỗ tai lên chăm chỉ nghe dặn: “đem cho bà ngoại nghe con”, rồi nó mới te te chạy từ chợ Long-An về tới Tầm-Vu, đoạn đường dài tới 5 cây số! Tới nhà ngoại nó sủa “vẩu vẩu” là ngoại tôi chạy ra nhận hàng. Giao hàng xong, nó lại chạy về chợ, như để báo cáo xong công tác. Gần mười năm trời dù nắng dù mưa, Út Chót cũng hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Cho tới ngày bà ngoại mất nó mới hết mang trầu cau đi!
Con đông phải tảo tần như vậy, mà má tôi vẫn cất được một căn nhà nhỏ, cách chợ khoảng một cây số để gánh cháo ra chợ cho gần hơn. Cháo vịt má tôi ngon nổi tiếng là nhờ nước mắm. Mắm gừng trộn mè, ai chấm miếng thịt vịt trong miếng nước mắm của má tôi, đều tấm tắc ngợi khen. Rau thơm đủ loại, có cả bắp chuối và bắp cải xắc mỏng. Khách yêu cầu rau nào là má tôi phục vụ loại đó. Nhiều người từ Mỹ-Tho lên, hay từ Sài-Gòn xuống đều ghé bà Ba ở chợ Long-An để ăn cháo vịt. Khách hàng mặc áo dài, veston cũng phải ngồi trên ghế đẩu trong chợ mà ăn, chứ không có bàn ghế gì hết! Ngoài nước mắm ngon, má tôi luộc vịt rất kỹ thuật. Vịt vừa chín là chặt ra. Sớm hơn một chút là sống thấy máu đỏ. Chín hơn một chút nữa khách cũng chê. Nhiều người mua vịt, mua cháo đem về nhà rất xa, cố tình bắt chước làm mắm chấm như má tôi, mà đều không giống!
Lúc ra tù, ba tôi tiếp tục dạy tiểu học, nhưng lương hướng không bao nhiêu. Má bắt buộc tất cả anh chị em tôi đều phải đi học, má không cho bất cứ đứa nào phụ giúp má hết. Má là người không biết chữ. Má hay biểu chạy ra “ ma xi” mua thuốc. Ba tôi cười cười: “không nhớ chữ pharmacy thì nói nhà thuốc tây đi!”. Khi chúng tôi nói lỡ lời, má nói “Nhất ngôn thất xuất, tử mã nan truy”. Ba tôi sửa: “Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy”, chớ tử mã là ngựa chết rồi làm sao mà chạy?” Một hôm có đám giỗ, tôi bưng nguyên một chồng chén kiểu bị vấp té bể tan tành. Má không nói gì hết, nhưng mấy bà hàng xóm tè be la tôi “Làm ăn không cẩn thận! Sớn xác quá mà !” Má tôi đỡ lời: “Thôi, nhân vô thập nhị!”. Ba tôi lật đật sửa“nhân vô thập toàn, bà ơi!” Một hôm rầy rà chúng tôi, không biết giỡn hay thiệt, má nói “ Sự bát chén dĩa tau mới dạy tụi bây, mà dạy nhiều thì gáo tra dài cán!” Ba và anh chị em chúng tôi ôm nhau mà cười bể bụng! Ba tôi lại sửa: “Bà ơi: Sự bất đắc dĩ má mới dạy chúng con, mà dạy nhiều thì giáo đa thành oán.” Làm ơn bà bớt nói chữ lại có được không!
Cháo vịt càng nổi tiếng, má sát sanh càng nhiều. Mỗi ngày có đến hơn 50 con vịt bị cắt cổ! Lưỡi dao của má đưa vào cổ, máu con vịt tuôn ra, nó dãy đành đạch, run lẩy bẩy. Tôi nhắm mắt đi chỗ khác, má không cho chúng tôi tới gần. Ðầu cánh chặt riêng. Lòng vịt xắc để riêng từng thau nọ thau kia. Má làm thoăn thoắt không ngừng tay. Má còn bán hột vịt lộn nữa. Nồi nước đang sôi, má đổ mấy chục cái trứng vào nồi. Tôi rùng mình khi nghe mấy cái trứng va vào nhau kêu lắc cắc giống như vit con trong trứng vùng vẫy! Má thức khuya, dậy sớm. Mỗi đêm ngủ không quá bốn tiếng đồng hồ, nhưng má tôi là người rất cao lớn và khỏe mạnh. Một hôm thấy gánh cháo vịt sẵn sàng để trước sân, anh Bảy tôi đưa lên vai gánh thử, rồi lật đật để xuống. Lúc má đi rồi, ảnh chun vào cái lu đựng nước ngồi khóc. Mấy chị em tôi bu lại hỏi tại sao. Ảnh tức tưởi: “Tau là thanh niên 18 tuổi, mạnh như trâu mà gánh thử không nỗi. Mấy chục năm nay, má gánh đi cả cây số ra chợ. Khổ quá mà má không bao giờ cho tụi mình phụ giúp gì hết!” Có lẽ vì vậy mà khi đậu tú tài hai xong là anh Bảy tình nguyện vào trường sĩ quan Ðà-Lạt. Má tôi năn nỉ mấy ảnh cũng không chịu lên Sài-Gòn tiếp tục đại học.
Chị Mười, Út Lớn và tôi, (Út Nhỏ) thì má dắt xuống Cần-Thơ gởi một bà bạn để chúng tôi trọ học. Thứ bảy, chủ nhật, chúng tôi hay về nhà. Ở nhà, chỉ còn Út Cu và chó đen Út Chót mà thôi. Mỗi lần thấy chúng tôi về, Út Chót như phát điên lên, nó sủa vang dội từ ngoài đường rồi hết tốc lực chạy u vào bếp sủa vang như báo tin cho mọi người biết, xong chạy vù trở ra ngoài lắc cái đuôi như cái máy. Lúc nào chúng tôi cũng thủ sẵn cái cặp (cartable) để hai chân nó chồm lên khỏi phải dơ hết áo dài.
Một hôm, chúng tôi vào nhà, nghe tiếng quát tháo om sòm. Một người đàn ông đứng giữa nhà, mặc bộ đồ lụa vàng, bên ngoài khoác thêm cái áo vết, đầu đội mũ nỉ vàng, tay cầm cây gậy (baton), khi thì dộng gậy xuống nền gạch nghe cồm cộp, khi thì chĩa gậy vào ba má tôi lớn tiếng: “Mấy người không trả tiền, tôi cho lính cào nhà mấy người!” Ba má tôi cúi đầu ủ dột. Má tôi năn nỉ: “ Xin Ông Hội đừng đòi nợ trước mặt các con tôi. Tôi sẽ trả mà!” ố “Xấu hổ hả? Chỉ có tiền lời thôi mà trả mấy năm chưa hết, lúc nào mới trả tới tiền vốn đây!”. Bất ngờ ngay lúc ấy Út Chót đi đâu về sùng sục nhào vô người lạ. Chút xíu nữa, nếu má tôi không cản kịp, nó đã cắn người ta rồi! Má tôi cầm cán chổi trên tay, nó chui tuốt xuống bộ ván nằm mà cứ hứ hứ gầm gừ liên tục, làm như bị uất ức lắm! Chưa bao giờ Út Chót dữ như lần đó. Cụt hứng ông Hội bỏ đi, còn hăm he: “Mấy người coi chừng tui, phải thanh toán gấp, không được kéo dài đó!” Ba chị em chúng tôi bải hoải, đầu váng, mắt hoa. Không đứa nào thay nỗi cái áo dài! Thì ra tiền ăn ở trọ, tiền sách vở, áo quần, giày guốc của chị em chúng tôi là do má đi vay nặng lãi của Ông Hội.
Hơn 20 năm má gánh nặng, chai cả hai vai, thức khuya dậy sớm. Má chưa bao giờ hé răng than vãn một lời, chưa có giọt nước mắt nào thương thân trách phận! Má nuốt nước mắt tủi nhục vào lòng khi bị chủ nợ mắng mỏ. Má âm thầm chịu đựng đắng cay để bầy con yên tâm học hành. Chị Mười nói: “Sao má không cho con nghỉ học để phụ má trả nợ?” Má tôi phân trần trong nước mắt: “Má là người không biết chữ nên mới bị bên nội rẻ khinh! Ngày dắt tụi con rời cái chuồng trâu bên nội, má đã có lời thề là nếu các con không đỗ đạt nên người, má thà chết, không trở về Mỹ-Thạnh nữa! Ngày nào má còn sống, tụi con phải đi học. Ðứa nào cãi lời thì đừng coi má là má của tụi con!”. Trời ơi! Sao lời thề nghe như khắc sâu trên đá!
Tối hôm đó, mấy chị em tôi đều thao thức không tài nào ngủ được. Chờ ba má ngủ xong, chị Mười kéo hết Út Lớn, Út Cu và tôi lên bàn thờ đốt một cây nhang, quỳ xuống và thề phải hết sức học hành để thoát ra cảnh nghèo, làm sao cho ba má khỏi bị mắng chưởi. Chúng tôi vùi đầu vào sách vở. Thấm thoát tới kỳ thi tú tài hai, cả tỉnh Long-An chỉ có chị Mười đậu bình. Thời ấy, cộng tất cả các môn thi đủ 10 điểm là chấm đậu. 12 là bình thứ, 14 là bình, 16 là ưu. Năm nào cũng có người thi rớt nhảy cầu Bến-Lức tự tử. Chị Mười đi du học Hoa-Kỳ về làm dược sĩ tại bệnh viện Nguyễn-Văn-Học, Gia-Ðịnh. Út Lớn đậu bình thứ đi du học Úc-Ðại-Lợi, về làm thanh tra Ngân-Hàng Quốc-Gia. Út Cu đi học bên Gia-Nã-Ðại về làm trường xét nghiệm. Phần tôi, thiếu mấy điểm nữa mới đủ 12, cho nên không được đi du học Tân-Tây-Lan như ước vọng. Tôi đành phải học bốn năm tại Trung-Tâm Huấn-Luyện Chuyên-Môn Ngân-Hàng ở Sài-Gòn và làm tham sự cho một ngân hàng tư. Tuy nhiên lương tôi rất cao nên má cũng hãnh diện về bầy con. Mỗi lần lãnh lương là mỗi lần tôi khóc, vì tôi nhớ tới ba. Ba tôi ghiền xem hát, nhưng không có tiền mua vé, mỗi đêm phải đứng xớ rớ trước cửa, đợi chừng nào người ta thả cửa mới được vô...
Niềm vui của má chưa được bao lâu thì một cuộc chiến đẫm máu xảy ra tại Ðức-Hòa, Ðức-Huệ. Một đại đội Biệt động quân đã tiêu diệt, xóa sổ một tiểu đoàn chính qui Việt-Cộng. Tuy nhiên Trung úy đại đội trưởng là anh Bảy của tôi đã đền nợ nước! Người chiến sĩ đã anh dũng bảo vệ tổ quốc bằng chính sinh mệnh của mình! Lá quốc kỳ phủ lên quan tài cùng với nhiều huy chương. Tiếng kèn đồng và những phát súng tiễn đưa của những chiến hữu không át được tiếng thét gào của má tôi:“Tre già khóc măng, con ơi là con ơi! Con hứa về thăm má, ngày nào má cũng trông con về ăn cháo vịt mà không thấy. Nay con về trong cổ quan tài, má làm sao thấy được mặt con?” Ba tôi phải dùng hết sức mới giữ được má tôi khỏi nhảy theo xuống huyệt. Từ đó, nỗi đau đớn quá bất ngờ làm tắt mất nụ cười của ba má tôi.
Hai năm sau, 1966, tới phiên ba tôi ngủ một giấc bình yên, tới sáng mọi người mới hay ba đã đi theo anh Bảy! Có lẽ bị huyết áp cao mà không biết tắt thở từ lúc nào! Mồ anh Bảy chưa xanh cỏ gia đình tôi lại đau nỗi ly tan. Hai cái tang đau đớn làm chị em chúng tôi héo hắt như cành khô trước gió đông. Má tôi gục xuống thẫn thờ như linh hồn đã tan theo suối lệ đầy vơi. Họ hàng nội ngoại đều cho ba tôi là ông Phật đất, suốt đời hiền lành tử tế, không làm phiền ai; cho nên nói tới ba tôi, ai cũng tỏ lòng thương mến. Giấc ngủ ngàn thu của ba bình yên như cuộc đời hiền hòa của ba. Mỗi đêm Út Cu đi ngủ không còn ai kể chuyện Vân-Tiên cứu Kiều-Nguyệt-Nga, Bao-Công tra án Quách-Hòe hay Võ-Tòng đả hỗ cho nó nghe. Những đoàn hát về rạp Long-An, không ai còn thấy ba tôi kiên nhẫn mỗi đêm đứng đợi chờ “thả cửa” để được vào xem hát.
Lúc nhỏ, mỗi lần chợ thiếu vịt, má tôi đích thân chống xuồng vòng vèo qua những con kênh nước đen tìm mua. Tôi ngồi ở giữa xuồng, má đứng thẳng người đằng sau chống mạnh. Xuồng lướt rào rào, những ngọn dừa nước dạt qua hai bên. Vài con chim bị động ổ bay tan tác trong hoàng hôn. Hình ảnh má oai hùng, uy nghi, làm tôi nhớ đến bức tranh Ngô-Quyền chống quân Nam-Hán trên sông Bạch-Ðằng! Má tôi cao lớn có đến một thước bảy là ít. Nhưng thần tượng của tôi đã gục xuống sau đám tang của ba. Má chống chọi một năm sau là bị tai biến mạch máu não. Chúng tôi chở má lên bệnh viện Nguyễn-Văn-Học, Gia Ðịnh, nơi chị Mười làm việc. Chị Mười nhờ các bác sĩ bạn từng du học Hoa-Kỳ rán cứu chữa, đều không hy vọng hồi phục. Má bị bại liệt một tay và một chân bên phải. Bán thân bất toại, phải ngồi xe lăn. Chúng tôi rước cả một ông đạo châm cứu tài giỏi nhất ở Thất-Sơn, Châu-Ðốc. Ông nói riêng với chúng tôi là ông thấy hằng hà vô số vịt bu quanh người của má tôi, nên ông bó tay, không làm gì được! Chúng tôi bàng hoàng kinh hãi. Má ơi! Má ơi làm sao đây? Chúng tôi than khổ với nhau, lòng đau như cắt!
Ðến giữa năm 1967, bệnh viện lại phát hiện thận của má tôi không làm việc.Sức khỏe lại quá yếu, không thể thay thận được, nên phải truyền máu. Truyền máu đến nỗi tay chân chai hết. Không chỗ nào chích kim được nữa, phải mổ ở cổ để chuyền vào cơ thể. Lâu lâu chỗ vết mổ bị nhiễm trùng, phải mổ chỗ khác để dời ống đi. Rồi bao tử lại phát hiện bướu ung thư, bác sĩ phải trị hóa liệu. Má tôi đau đớn quằn quại trên giường bệnh trước sự bất lực của chúng tôi. Má tôi đã hy sinh một mình trả cái nghiệp sát sanh. Ðành rằng má tiên liệu sẽ có ngày hôm nay, nên cấm không cho anh chị em chúng tôi cắt cổ bất cứ con vịt nào, nhưng gián tiếp chúng tôi đã hại má. Ðánh đổi cơm ăn, áo mặc, tiền sách vở... là sự đau đớn mà má đang nhận chịu hôm nay. Chúng tôi không đau thể xác nhưng tinh thần luôn luôn bị dằn vặt bởi tội lỗi. Chùa chiền nào chúng tôi cũng tới xin sám hối, nhưng sao linh hồn vẫn nặng trĩu như đá treo!
Ngày 25 tháng 1 năm 1968, má tôi hoàn toàn bị “cô ma”, không còn biết gì! Bác sĩ cho xuất viện, chúng tôi chở về Long-An. Chị Mười đã chích morphine cho má bớt đau đớn. Hôm sau 26 tháng 1 má tôi thở hơi cuối cùng, nhắm mắt xuôi tay. Qua ngày Chủ Nhật 29 Tết, trong khi nhà nhà chuẩn bị ăn Tết, thì chúng tôi làm đám tang, chôn má bên cạnh mộ anh bảy.
Hai ngày sau, chưa kịp mở cửa mả thì tiếng súng Mậu-Thân vang rền. Những người trang bị súng AK xuất hiện nhiều nơi! Quốc lộ miền Tây bị đắp mô. Giao thông về Sài-Gòn bị gián đoạn. Lửa khói bốc lên, xe cứu thương hụ còi! Dân chúng chạy loạn ngược xuôi. Chị em chúng tôi tính kế phân tán mỏng để có thể về nhiệm sở. Nhờ đi bộ và mướn xe lôi, luồn lách từng đoạn một, cuối cùng chúng tôi cũng thoát hiểm về được nhiệm sở ở Sài-Gòn.
Bảy tuần sau an ninh mới được vãn hồi. Chúng tôi kéo về nhà Long-An làm lễ thất tuần cho má. Lễ vật đem ra mộ mới thấy Út Chót nằm chết khô trên mộ má tôi! Chúng tôi đang lui hui cúng lạy, thì hàng xóm quanh đó cho hay, họ có đem đồ ăn cho chó mực, nhưng bao nhiêu lần nó đều hưởi hưởi rồi để nguyên, nước mắt ứa ra hai dòng, không chịu ăn uống gì hết! Chúng tôi thêm một cái tang đau đớn như mất một đứa em. Thêm một nấm mộ nhỏ bên cạnh mộ má tôi. Má tôi sanh 13 đứa con mà có lẽ vì khổ cực quá nên mấy anh chị lớn đều chết yểu, chỉ còn lại anh bảy và bốn người chúng tôi mà thôi! Út Cu đau khổ nhứt. Hồi nhỏ, đi học về là suốt ngày nó ôm Út Chót. Con chó mực lông đen thui, Út Cu lại luôn luôn mặc áo bà ba lụa trắng. “Hai đứa” nó như hai ông thần “Hắc Bạch” trong phim Tàu không rời nhau! Út Cu đã đặt một mộ bia cho Út Chót: “Ðây là nơi an nghỉ của một con chó trung thành chết theo chủ”.
Hiện nay Mười và Út Lớn định cư ở Úc. Út Cu ở Gia-Nã-Ðại. Tôi, Út Nhỏ định cư tại Mỹ. Ai cũng canh cánh bên lòng món nợ đối với má, đối với nghiệp sát sanh nhân quả báo ứng. Hội Từ Bi Phụng Sự dưới sự dẫn dắt của thầy Hằng-Trường đã hai lần tổ chức lạy Lương-Hoàng- Sám ở Irvine, Quận Cam, để cầu siêu độ cho vong linh. Tôi đã cầm bài vị ghi tên má để nhờ uy lực của tăng đoàn cầu siêu sinh cho má. Lần thứ ba, trong ngôi chùa của đạo Jane ở Anaheim cũng không vắng mặt tôi. Gần đây nhất là Quán-Âm-Sám với Mạn-Ðà-La vô cùng hoành tráng, có sự tham dự hằng ngàn người, tổ chức ba ngày, (17,18, 19 tháng 12 năm 2010) tại The Phoenix Club, 1340 S. Anderson Ave, Anaheim CA 92806. Tôi cầm bài vị của má và anh bảy, (một anh hùng vị quốc vong thân) để cầu nguyện cho hai người. Tối hôm sau, đêm 20 tháng 12, tôi mơ thấy anh bảy cười tươi trong bộ quân phục oai hùng đẹp trai của ngày anh mãn khóa Võ Bị Quốc Gia Ðà-Lạt, còn má tôi mặc một chiếc áo già lam sáng rực rỡ như lưu ly pha lê: “Má cám ơn con đã tâm thành cầu nguyện cho má bấy lâu nay. Nay má đã được vãng sanh rồi. Báo cho con mừng.” Tôi hớn hở lớn tiếng: “Má! Má!” Ông xã tôi nghe được, đã đánh thức tôi dậy để hỏi cớ sự, ảnh thấy nước mắt vui mừng của tôi còn ướt trên hai má.
No comments:
Post a Comment